Cách sử dụng và dược tính của cây ngọc trúc trong chữa bệnh

Cách sử dụng và dược tính của cây ngọc trúc trong chữa bệnh

Polyvonaturn officinale All hay được gọi là ngọc trúc thuộc họ Aspragaceae (họ Thiên môn), là một loại thảo mộc sống lâu năm. Bộ phận làm thuốc: lá, thân, rễ ngọc trúc, đem rửa sạch, rồi phơi khô hoặc cho đồ qua cho mềm rồi sấy khô hoặc phơi nắng. Cây ngọc trúc được dùng làm thuốc chữa ho mãn tính và ho khan, họng khô khát, người nóng sốt, mắt đỏ, sưng đau, chữa được các chứng phong thấp, đau thắt lưng, di tinh. Hãy cùng wcbison.com tìm hiểu về vị thuốc này về công dụng và cách dùng qua bài viết dưới đây.

Đặc điểm nhận dạng cây

Đặc điểm nhận dạng cây

Ngọc trúc là một loại cỏ sống dai cao 40 – 60cm, thân rễ mọc ngang màu vàng trắng nhạt, đường kính 0,5 – 1,5cm, trên thân rễ có nhiều rễ con. Lá mọc so le từ giữa thân trở lên, không có cuống, cứng dai, hình trứng, rộng dài 6 – 12cm rộng 3 – 6cm, mặt dưới màu trắng nhạt, Hoa mọc ở kẽ lá có cuống dài 1 – 1,4cm, mỗi kẽ mọc 1 – 2 hoa, màu trắng, hình chuông. Nếu 2 hoa thì có một cuống chung và 2 cuống con riêng. Quả mọng, hình cầu, đường kính 1 – 7mm, khi chín có màu tím đen.

Thu hái và chế biến

Thu hái

Sự phân bố của cây này ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam), ta có thể chú ý tìm ở các tỉnh biên giới. Hiện nay ta đang khai thác một số loài ngọc trúc với tên hoàng tinh. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.

Thu hái vào mùa xuân hoặc mùa thu, hái về cắt bỏ rễ con, rửa sạch đất để 1 lúc, lấy ra phơi cho hơi khô đem ra lăn cho mềm rồi phơi hay sấy khô là được.

Chế biến

Khi dùng chế biến dược liệu theo cách làm sau:

Dạng nguyên phiến: Thân rễ ngọc trúc đã phơi khô, thái vát thành phiến dài 3 – 5cm.

Dạng chưng: thân rễ đem ủ một ngày, đêm. Tiếp tục làm như vậy 2 – 3 lần đến khi thuốc có màu đen, rồi thái khúc dài 2 – 3cm.

Dạng tẩm bột mật ong: Ngọc trúc nguyên phiến tẩm đều với mật ong (cứ 10kg dược liệu dùng 1 – 1,5kg mật) trong 30 phút, rồi dùng lửa nhỏ sao đến khi có màu vàng, mài thơm, sờ không dính tay là được.

Dạng tẩm rượu: Thân rễ 10kg đồ 8 giờ cho mềm, thái khúc, thêm rượu 1,5kg, rồi chưng trong 4 giờ.

Tác dụng dược lý của ngọc trúc

Tác dụng dược lý của ngọc trúc

Nên căn cứ vào thành phần hóa học xác định theo tài liệu cũ thì chất convallarin có tác dụng kích thích thận và tẩy mạnh, lúc đầu convallarin gây hạ huyết áp, nhưng sau đó tim đập chậm lại, gây co quắp và cuối cùng với liều vừa đủ, gây tim ngừng ở thể tâm giãn, sau đó ngưng hô hấp.

Các bài thuốc chữa bệnh

Trong y học cổ truyền, ngọc trúc có vị ngọt, tính mát, không độc, có tác dụng bổ dưỡng, sinh tân dịch, nhuận táo, tiêu đờm, chỉ khát, chống viêm, được dùng trong những trường hợp sau:

Chữa suy nhược cơ thể, sốt hầm hập, ho khan, miệng khô rát, mồ hôi trộm: ngọc trúc 16g, bạch thược, sa sâm, địa cốt bì, mạch môn, mỗi thứ 12g; ngân sài hồ 8g, trần bì 6g, bối mẫu 6g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày.

Chữa hư lao, sốt về chiều, ho nhiều: ngọc trúc 16g, đảng sâm; bạch truật, bách bộ, hoài sơn, mạch môn, mỗi thứ 12g; ngũ vị tử 6g. Sắc uống ngày một thang.

Chữa viêm khớp dạng thấp: Ngọc trúc, hà thủ ô, đan sâm, hoài sơn, mỗi thứ 40g; đương quy, đơn bì, bạch linh, trạch tả, mạch môn, mỗi thứ 20g; thanh bì, chỉ thực, sơn thù, mỗi thứ 10g. Tất cả thái nhỏ, rây bột mịn, trộn với mật ong hoặc sirô làm viên 5g. Ngày uống 4 – 6g.

Chữa đau mắt đỏ: Ngọc trúc 12g; cúc hoa, huyền sâm, thảo quyết minh (sao), sinh địa, mỗi thứ 10g; bạc hà 2g. Sắc lấy nước uống và xông hơi.

Chú ý: Người âm thịnh, dương hư, thấp đờm, có ứ trệ không được dùng ngọc trúc.